Người Việt
Ăn Uống Thế Nào và Cách Nấu Nướng Khác Với Người Trung Hoa Ra Sao?Thật ra, tôi
rất ngại khi cầm viết ghi lại những câu hỏi đã trả lời cho những bạn
bè người nước ngoài khi họ hỏi tôi:Người ViệtNam ăn uống thế nào ? Hay là cách nấu
ăn của người Việt có khác người Trung Quốc hay chăng? Vì đó chỉ là những phần
nhận xét đã được nhanh chóng đúc kết để đưa ra những câu giải đáp kịp thời chớ
không phải do một sự sưu tầm có tính cách khoa học. Trong câu chuyện, một vài bạn
trong báo Tuổi Trẻ thấy nhận xét sơ bộ của tôi có phần nào lý thú, nghe vui tai
nên nhờ tôi ghi ra thành văn bản. Nể lời các bạn, tôi xin gởi đến các bạn đọc
vài mẩu chuyện có thật về cách ăn và nấu ăn của người Việt chúng ta, và xin các
tay nghề nấu ăn trong nước đừng cười tôi dốt hay nói chữ, dám múa búa trước cửa
Lỗ Bang, đánh trống trước cửa nhà Sấm.Trong một buổi tiệc, một anh bạn Pháp hỏi
tôi:-Chẳng biết người Pháp và người Việt Nam ăn uống khác nhau như thế nàỏ?-Tôi
rất ngại so sánh . . . tôi trả lời . . . vì so sánh là biết rõ rành mạch cả hai
yếu tố để so sánh.Thỉnh thoảng tôi có ăn uống theo người Pháp nhưng làm sao biết
cách ăn của người Pháp bằng người Pháp chính cống như anh. Tôi thì có thể nói
qua cách ăn uống của người Việt chúng tôị Để cho anh dễ nhớ, tôi chỉ đưa ra ba
cách nấu ăn của người Việt, rồi anh xem người Pháp có ăn như vậy chăng?Người
chúng tôi ăn toàn diện, ăn khoa học, ăn dân chủ:
bè người nước ngoài khi họ hỏi tôi:Người Việt
1. Ăn toàn
diện: Chúng tôi không chỉ ăn bằng miệng, nếm bằng lưỡi, mà bằng ngũ quan. Trước
hết ăn bằng con mắt, và do đó có nhiều món đem dọn lên, nhiều màu sắc chen nhau
như món gỏi sứa chúng tôi chẳng hạn: có giá màu trắng, các loại rau thơm màu
xanh, ớt màu đỏ, tép màu hồng, thịt luộc và sứa màu sữa đục, đậu phộng rang màu
vàng nâu v. v. . . Có khi lại tạo ra hình con rồng, con phụng, trong những món
ăn nấu đãi đám hỏi, đám cướị Sau khi nhìn cái đẹp của món ăn, chúng tôi thưởng
thức bằng mũi, mùi thơm của các loại rau thơm như húng quế, ngò, hoặc các mùi đặc
biệt của nước mắm, của cà cuống. Răng và nớu đụng chạm với cái mềm của bún, cái
dai của thịt luộc và sứa, cái giòn của đậu phộng rang để cho xúc cảm tham gia
vào việc thưởng thức món ăn sau thị giác và khứu giác. Rồi lỗ tai nghe tiếng lốc
cốc của đậu phộng rang, hay tiếng rào rào của bánh phồng tôm, hay tiếng bánh
tráng nướng nghe rôm rốp. Sau cùng lưỡi mới nếm những vị khác nhau, hòa hợp
trong món ăn: lạt, chua, mặn, ngọt, chát, the, cay v. v. Chúng tôi ăn uống bằng
năm giác quan, về cái ăn như thế gọi là ăn toàn diện.
2. Ăn khoa
học: Hiện nay, nhiều nhà nghiên cứu, nhất là ở Nhật Bổn thường hay sắp các thức
ăn theo " âm" và " dương". Nói một cách tổng quát thì những
món nào mặn thuộc về dương, còn chua và ngọt thuộc về âm. Người Việt thường trộn
mặn với ngọt làm nước mắm, kho thịt, kho cá, rang tép, ướp thịt nướng, luôn
luôn có pha một chút đường; mà ăn ngọt quá như chè, ăn dưa hấu hay uống nước dừa
xiêm thì cho một chút muối cho âm dương tương xứng. Người Tây khi ăn bưởi thật
chua lại cho thêm đường, đã âm lại thêm âm thì âm thịnh dương suy, không đúng
theo khoa học ăn uống. Người Việt phần đông không nghiên cứu về thức ăn, nhưng
theo truyền thống của cha ông để lại thành ra ăn uống rất khoa học. Người Việt
chẳng những để ý đến quân bình âm dương giữa các thức ăn mà còn để ý đến quân
bình âm dương giữa người ăn và thức ăn. Khi có người bị cảm, người nấu cháo hỏi:
cảm lạnh (bị mắc mưa, đêm ra ngoài bị cảm sương) thì nấu cháo gừng vì cảm lạnh
(âm) vào người phải đem gừng (dương) vào chế ngự. Nếu cảm nắng (bị mặt trời làm
cho sốt) thì dương đã vào người phải nấu cháo hành (âm) . Lại nghĩ đến âm dương
giữa người ăn và môi trường; mùa hè thời tiết có dương nhiều nên khi ăn có canh
chua (âm) hoặc hải sâm (âm); mùa đông thời tiết có âm nhiều nên ăn thịt nướng.
Ta có câu:"mùa hè ăn cá sông, mùa đông ăn cá biển" Quân bình trong âm
dương còn thể hiện qua điếu thuốc làọ Thuốc lá phơi và đóm lửa (dương) hít một
hơi cho khói qua nước lã trong bình (âm) để hơi khói thuốc vào cơ thể, nguồn
hút có cả dương và âm, không kể nước đã lọc bớt chất nicotine có hại cho buồng
phổị Chẳng những cân đối về âm dương mà còn hàn nhiệt nữa: thịt vịt hay thịt cá
trê - hàn - thì chấm với nước mắm gừng - nhiệt -. Cách ăn của người Việt Nam
khoa học vì phù hợp với nguyên tắc âm dương tương xứng hành nhiệt điều hòạ
Ngoài ra trong một món ăn thường đã có chất bột, chất thịt, chất rau làm cho sự
tiêu hóa được dễ dàng.
3. Ăn dân
chủ: Trên bàn dọn bao nhiêu thức ăn, nhưng chúng tôi có thể những món chúng tôi
thích, hoặc phù hợp với vấn đề bảo vệ sức khỏe của chúng tôị Ăn ít hay ăn nhiều
thì tùy theo sức chứa bao tử của chúng tôi, chớ không phải ăn những món không
ăn được, hay là ăn không nổị Như vậy cách của người Việt Nam rất dân chủ. Anh bạn
người Pháp thích chí cười to: ăn toàn diện, chúng tôi chưa nghĩ đến là về thính
giác, ăn mà nghe tiếng động là vô phép nên ăn bớt ngon. Ăn khoa học, thì chúng
tôi chỉ nghĩ đến calorie mà không biết âm dương và hàn nhiệt. Còn ăn dân chủ,
thì hoàn toàn thiếu sót vì đến nhà chúng tôi có một thực đơn mà mỗi người một
đĩa, ăn không hết sợ vô phép nên nhiều khi không ngon lắm hoặc quá no cũng phải
cố gắng ăn cho hết. Tôi xin hoàn toàn hoan nghinh cách ăn của người Việt Nam.Về
cách ăn uống Việt Nam
lại có thêm:
4. Ăn cộng
đồng: Thức ăn đầy bàn mà có một nồi cơm, một tô nước mắm để mọi người cùng xới
cơm và chan nước mắm ở một nơị.
5. Ăn lễ
phép: Con lớn lên đã theo học ăn, học nói, học gói, học mở. Học ăn là trước nhứt,
khi ăn phải coi nồi, ngồi coi hướng.
6. Ăn tế
nhị: Ăn ớt cử cách cắn trái ớt, có khi phải ăn ớt xắt từng khoanh, ớt bằm, ớt
làm tương. Nước chấm nhứt là ở miền Trung rất tinh tế ăn món chi phải có nước
chấm đặc biệt: bánh bèo, bánh lá, bánh khoái đều có nước chấm khác.
7. Ăn đa vị:
Một miếng nem nướng đã có vị thịt, riềng, muối, tỏi, hành cuốn vào bánh tráng lạt
lạt, có chút bún, rau thơm, ớt (cay) , chuối sống (chát) , khế (chua) , tương (ngọt,
mặn cay) có pha hột điều hay đậu phộng xay (béo). Ăn có năm vị chánh: ngọt, mặn,
chua, cay, béo, có cả ngũ sắc đen (tương) , đỏ (ớt) , xanh (rau) , vàng (khế
chín) , trắng (bánh tráng, bún) . Ăn một miếng mà thấy 5 màu, lưỡi nếm 5 vị và
có khi hơn thế nữạ.
Một lần
khác, một anh bạn của tôi khai trương một tiệm ăn lớn tại Paris . Anh có mời đài phát thanh và báo chí đến
để cho biết rằng tiệm của anh có cả thức ăn Trung Quốc và Việt Nam . Các phóng
viên muốn biết Việt Nam
và Trung Quốc nấu ăn có khác nhau như thế nàỏ? Hai đầu bếp Việt Nam và Trung Quốc
được mời ra để báo chí hỏi thì hai người đều khẳng định là cách nấu ăn rất
khác, nhưng phải xuống bếp coi mới thấy. Nhà bếp nhỏ không chứa được mấy chục
phóng viên, và ai cũng ngại hôi dầu hôi mỡ nên ông chủ tiệm nhờ tôi tìm câu trả
lời cho các nhà báo. Tuy không phải là một chuyên gia về nghệ thuật nấu bếp,
nhưng tôi cũng phải tìm câu trả lời thế nào để cho các nhà báo bằng lòng. Tôi mới
nói rằng, tôi không đi vào chi tiết nhưng chỉ đưa ra ba điểm khác nhau trong cơ
bản.
1. Cách
dùng bột: Người Việt Nam thường dùng bột gạo trong khi người Trung Quốc thích
dùng bột mì, cho nên Việt Nam có phở, hủ tiếu, bún thang, bún bò, bún riêu; mà
người Trung Quốc thì chuyên về mì nước, mì khô, mì sợi nhỏ, mì sợi lớn, mì vịt
tiềm. Người Việt làm bánh đùm, bánh xếp, bánh cuốn, bánh hỏi; người Trung Quốc
thì bánh baọ. Chả giò người Việt Nam cuốn bằng bánh tráng bột gạo;
còn người Trung Quốc thì cuốn tép trong bánh bằng bột mì.
2. Nước chấm
cơ bản của người Việt nam là nước mắm là bằng cá; còn nước chấm của người Trung
Quốc là xì dầu làm bằng đậu nành.
3. Người
Việt thì thường pha mặn ngọt; người Trung Quốc thích chua ngọt. Chỉ nói đại
khái như vậy mà các phóng viên đã hài lòng; về viết bài tường thuật nêu lên những
điểm khác nhau ấỵ Ông giám đốc tạp chí Đông Nam Á, sau lời nhận xét đó, cho
phóng viên đến phỏng vấn tôi thêm và hỏi tôi có biết yếu tố nào khác đáng kể
khi nói về cách nấu ăn của người Việt khác người Trung Quốc ở chỗ nàỏ? Tôi trả
lời cho phóng viên trong 40 phút. Hôm nay tôi chỉ tóm tắt cho các bạn những điểm
chính sau đâỵ.
a. Về rau:
người Việt tuy có ăn rau luộc, hay xào; nhưng thích ăn rau sống, rau thơm, mà
người Trung Quốc không ưa ăn rau sống, cải sống, giá sống.
b. Về cá:
Người Trung Quốc biết kho, chưng, chiên như người Việt Nam . Nhưng người Trung Quốc có cá mặn
không làm mắm như người Việt. Có rất nhiều cách làm mắm và ăn mắm: mắm thái, mắm
nêm, mắm ruốc, mắm tôm v. v. . .Các nước Đông Nam Á cũng có làm mắm nhưng không
có nước nào biết làm nhiều loại mắm như người Việt.
c. Về thịt:
Người Trung Quốc biết quay, kho, luộc xào, hầm như người Việt, mà không biết
làm nem, bì và các loại chả như chả lụa, chả quế v. v. . .
d. Người
Trung Quốc ít có phối hợp nhiều vị trong một món ăn như người Việt. Khi chúng
ta ăn một món ăn như nem nướng thì có biết bao nhiêu vị: lạt lạt của bánh
tráng, bún, hơi mát mát ngọt ngọt như dưa leo, và đặc biệt của giá sống trộn với
khế chua, chuối chát, ớt cay, đậu phộng cà bùi bùi, và có tương mặn và ngọt.
Người Việt trong nghệ thuật nấu ăn rất thích lối đa vị và tất cả các vị ấy bổ
sung cho nhau, tạo ra một vị tổng hợp rất phong phú .Cái ăn chiếm phần khá quan
trọng trong đời sống của chúng tạ Khi dậy dỗ một trẻ em thì phải cho nó học ăn,
học nói, học gói, học mở để biết ăn, nói với người tạ. Ra đường phải biết
" ăn bận" hay " ăn mặc" cho phải cách phải thế. Đối với mọi
người không nên " ăn thua" làm chi cho bận lòng. Làm việc gì phải cẩn
thận " ăn cây nào, rào cây nấy" . Trong việc tiêu tiền phải biết
" liệu cơm, gắp mắm" và dẫu cho nghèo đi nữa "khéo ăn thì no,
khéo co thì ấm" . Không nên ham ăn quá độ vì "no mất ngon, giận mất
khôn" . Ra làm ăn phải quyết tâm đừng "cà lơ xích xụi" chạy theo
"ăn có" người khác. Phải biết " ăn chịu" với người làm việc
nghiêm túc thì công việc khỏi bị "ăn trớt" . Không nên "ăn gian,
ăn lận" hay bỏ lỡ cơ hội thì " ăn năn" cũng muộn. Trong cuộc sống
nên tìm việc làm hữu ích cho gia đình, cho xã hội, cho đất nước đừng để mang tiếng
"ăn hại" "ăn bám" người khác. Khi đàn chơi phải biết lên
dây đàn cho "ăn" với giọng ca, hòa đàn cũng phải "ăn" với
nhau, "ăn ý" , "ăn rơ" thì mới hay. Các bạn thấy chăng? Cái
" ăn" cũng khá quan trọng nên mới lọt vào một số từ ngữ của tiếng nói
Việt Nam .
Tuy chúng ta không như người Trung Quốc "dĩ thực vi tiên" nhưng phải
có ăn mới làm nên việc vì có "thực mới vực được đạo"
Trần Văn Khê
0 nhận xét:
Đăng nhận xét